Bệnh lí sùi MÀO GÀ SINH DỤC (Genital wart)
I. ĐẠI CƯƠNG Sùi mào gà sinh dục là một bệnh truyền nhiễm xã hội hay gặp, bệnh do virus sùi mào gà (HPV) gây. Hầu hết người nhiễm HPV không có biểu hiện lâm sàng, tỷ lệ có biểu hiện chỉ khoảng 1-2% thuốc trị Bệnh sùi mào gà. II. CHẨN ĐOÁN a) Lâm sàng - thương tổn xảy ra tại khu vực bị sang chấn khi quan hệ tình dục, có thể đơn độc hoặc thường có khá nhiều tổn thương (khoảng 5-15), con đường kính thương tổn từ 1-10mm. Các thương tổn có khả năng kết vào nhau thành mảng lớn, đặc biệt hay gặp ở người mắc suy giảm miễn dịch cũng như tiểu đường. - Thường không phải triệu chứng cơ năng. Các có khả năng ngứa, cảm giác bỏng rát, đau hay xuất huyết - khu vực thương tổn thường thấy ở nam giới là bộ phận sinh dục nam, vành qui đầu, hãm bộ phận sinh dục nam, mặt trong bao qui đầu, bìu. Tại phụ nữ, tổn thương tại hãm môi âm hộ, môi bé, môi lớn, âm vật, lỗ niệu, ở vùng đáy chậu, hậu môn, tiền đình âm đạo, âm môn, màng trinh, âm đạo cũng như mặt bên ngoài cổ tử cung. Sùi mào gà có thể thấy ở bẹn, ở vùng đáy chậu cũng như ở hậu môn. Lỗ niệu đạo mắc thương tổn tại nam gặp khoảng 20-25% cũng như ở nữ là 4-8%. Vùng hậu môn hiếm gặp hơn. - Màu sắc của sùi mào gà không sừng hoá có màu hồng tươi, đỏ, lúc bị sừng hoá có màu xám trắng và một số tổn thương nhiễm sắc có màu tro xám, nâu đen. Tổn thương sùi không có xu hướng nhiễm sắc nhưng một số tổn thương nhiễm sắc có khả năng thấy tại môi lớn, thân bộ phận sinh dục nam, mu, bẹn, đáy chậu cũng như vùng hậu môn và hình ảnh sùi mào gà - Sùi mào gà còn có khả năng thấy ở môi, họng, vòm họng cũng như hay kèm theo một số thương tổn vùng sinh dục-hậu môn trên người có tiền sử tình dục đường miệng. b) Cận lâm sàng - Soi niệu đạo - Soi hậu môn: khi có sùi mào gà ở tại vùng hố chậu cũng như quanh hậu môn, khoảng 1/3 có khả năng có thương tổn trong hậu môn. - Test axit axêtic: Bôi axít axêtic 5%, sau vài phút tổn thương có màu xám trắng. Kết quả của test này giúp cho sinh thiết cũng như phẫu thuật loại bỏ thương tổn. Song, test này không đặc hiệu cũng như không sử dụng trong mục đích sàng lọc. - Mô bệnh học: phải làm với những hiện tượng không phổ biến để chẩn đoán phân biệt hoặc khi nghi ngờ về tính chất lành tính của các thương tổn sẩn cũng như dát như nghi ngờ sẩn dạng Bowen, bệnh Bowen hay condyloma khổng lồ. III. trị liệu a) Nguyên tắc chung - Xét nghiệm tìm ra HPV cũng như định chủng. - cần khám nghiệm những bệnh truyền nhiễm xã hội khác. - thăm khám cũng như chữa trị bạn tình. b) trị liệu rõ ràng - Việc lựa chọn cách thức điều trị nhất thiết phải cân nhắc về tuổi bệnh nhân, vị trí thương tổn, số lượng, kích thước thương tổn và khả năng chuyên môn và trang thiết mắc của cơ sở trị liệu. - một số thuốc chữa trị được phân làm hai loại: + Người bệnh tự bôi: - Podophylotoxin 0,5% dạng dung dịch hay kem. Bôi ngày 2 lần bằng tăm bông, bôi 3 ngày liên tiếp rồi nghỉ 4 ngày, chữa trị một đợt 4 tuần. - Kem imiquimod 5% kích thích sản xuất interferon và một số cytokin. Người bệnh bôi bằng tay 3 lần/tuần, tới 16 tuần. Sau lúc bôi 6-10 giờ phải rửa bằng nước và xà phòng nhẹ. - Hai mẫu thuốc này không dùng bôi thương tổn ở quanh vùng hậu môn, trực tràng, miệng sáo, âm đạo cũng như cổ tử cung. Không dùng cho phụ nữ có thai. + Điều trị tại cơ sở y tế: - Bôi podophyllin, dung dịch 10-25% trong cồn ethanol hoặc cồn benzoin. Bôi để khô, rửa sạch sau khoảng 1-4 giờ. Bôi 1-2 lần/tuần, trong 6 tuần. Một lần bôi cao nhất 0,5 ml hay trên một diện tích thương tổn <10 cm2 cho một lần trị liệu để hạn chế độc tính của thuốc như làm cho ức chế tủy xương. Không sử dụng cho phụ nữ có thai, cho con bú. - Trichloroacetic (TCA) hoặc bichloroacetic (BCA) 80-90% được dùng bôi một số thương tổn nhỏ, ẩm thấp. Thầy thuốc bôi cho người bị bệnh hàng tuần, trong cao nhất 6 tuần. Nhất thiết phải cẩn thận khi bôi để tránh tổn hại tại vùng da-niêm mạc lành. Dùng bicarbonnat hay vaselin bôi xung quanh thương tổn để bảo vệ tại vùng da xung quanh - những phương thức trị liệu khác bao gồm nạo thương tổn, cắt bỏ thương tổn, phẫu thuật điện, laser, tiêm interferon hoặc 5-fluorouracin. Những phẫu thuật đơn giản bằng dao, kéo hoặc laser CO2, đốt điện cần phải dẫn tới tê. Phương pháp này kê toa cho những thương tổn lớn, cho phụ nữ có thai. Đốt điện chống kê toa cho người Bệnh sùi mào gà bị máy tạo nhịp tim, tổn thương ở gần ở hậu môn. - trị liệu lạnh làm cho phá hủy tổn thương bệnh và một vùng nhỏ hình thái giải phẫu xung quanh bắt buộc được chỉ định cho những tổn thương nhỏ. Trị liệu mỗi tuần 1-2 lần trong 4- 6 tuần. Dùng đầu áp lạnh hoặc phun nitơ lỏng vào thương tổn. Có khả năng phải gây tê vì trị liệu lạnh gây ra đau. Hiệu quả chữa trị và sự an toàn phụ thuộc vào kỹ năng và kinh nghiệm của thầy thuốc. - Tiêm interferon hay 5-fluorouracin/cấy epinephrine gel có hiệu quả trong trị liệu các tổn thương nhỏ cũng như ít. Tuy vậy, có các tác dụng phụ cũng như giá thành đắt.
0 Comments
Leave a Reply. |
AuthorWrite something about yourself. No need to be fancy, just an overview. ArchivesCategories |